Tăng cường công tác quản lý chất lượng môi trường không khí tại Việt Nam

Việt Nam đang đối mặt với những thách thức lớn trong việc quản lý chất lượng môi trường không khí, đặc biệt là tại các đô thị lớn như Hà Nội và TP.HCM. Ô nhiễm không khí không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng mà còn tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế – xã hội. Ô nhiễm tập trung vào hàm lượng bụi, trong đó có bụi mịn (PM2.5), đối với các thông số khác NO2, O3, CO, SO2 đều đạt gới hạn cho phép (GHCP) của QCVN 05:2023/BTNMT. Vì vậy, tăng cường công tác quản lý chất lượng môi trường không khí tại Việt Nam là vấn đề cấp bách cần được quan tâm và hành động kịp thời.

Hiện trạng, diễn biến chất lượng môi trường không khí tại Việt Nam

Theo số liệu từ các Trạm quan trắc môi trường không khí tự động, liên tục tại các đô thị từ năm 2022 đến năm 2023, nồng độ bụi PM2.5 trung bình năm tại nhiều khu vực, đặc biệt là Hà Nội, Quế Võ (Bắc Ninh) và Hùng Vương (Thái Nguyên), đã vượt giới hạn cho phép (GHCP) theo QCVN 05:2023/BTNMT. Cụ thể, tại Hà Nội, giá trị PM2.5 trung bình năm dao động từ 26 – 52 µg/Nm3, cao hơn GHCP từ 1,1 – 2,1 lần. Tại Quế Võ, Bắc Ninh, chỉ số này dao động từ 32 – 38 µg/Nm3, vượt từ 1,3 – 1,5 lần. Trong khi đó, tại các tỉnh miền Trung, nồng độ bụi PM2.5 trung bình năm thấp hơn, dao động từ 12 – 24 µg/Nm3 và vẫn nằm trong mức giới hạn của QCVN 05:2023/BTNMT. Tuy nhiên, nếu xét theo tiêu chuẩn trung bình 24 giờ, vẫn có một số ngày ghi nhận giá trị bụi vượt ngưỡng.

Diễn biến giá trị bụi PM2.5 trung bình năm tại một số Trạm quan trắc tự động, liên tục tại khu vực phía Bắc
Diễn biến giá trị bụi PM2.5 trung bình năm tại một số Trạm quan trắc tự động, liên tục tại khu vực miền Trung
Diễn biến giá trị bụi PM2.5 trung bình năm tại một số Trạm quan trắc tại khu vực phía Nam

Tình trạng ô nhiễm bụi PM2.5 có sự khác biệt giữa các vùng miền. Nồng độ bụi cao nhất tại khu vực Hà Nội và các tỉnh lân cận thuộc đồng bằng sông Hồng, tiếp theo là TP. Hồ Chí Minh và vùng lân cận, thấp nhất tại khu vực Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. Thống kê năm 2023 cho thấy, tại Trạm quan trắc 556 Nguyễn Văn Cừ (Hà Nội), có đến 34% số ngày trong năm ghi nhận nồng độ PM2.5 vượt GHCP. Các trạm tại Hùng Vương (Thái Nguyên) và Văn Môn (Bắc Ninh) lần lượt có 32% và 26% số ngày ô nhiễm bụi, trong khi tại Khánh Hòa, tỷ lệ này chỉ ở mức 1,1%.

Mức độ ô nhiễm bụi giữa các khu vực đô thị

Tình trạng ô nhiễm bụi tại các đô thị cũng có sự phân hóa theo từng khu vực. Những nơi có mức ô nhiễm cao chủ yếu nằm gần các trục giao thông lớn, khu công nghiệp nội đô hoặc các công trình xây dựng. Nguyên nhân chính là do quá trình thi công, vận chuyển vật liệu và hoạt động sản xuất công nghiệp phát tán bụi ra môi trường. Theo số liệu từ Chương trình quan trắc quốc gia do Cục Kiểm soát ô nhiễm môi trường thực hiện, tình trạng ô nhiễm bụi thường nghiêm trọng nhất trên các tuyến đường liên tỉnh, liên vùng. Không chỉ các thành phố lớn, mà ngay cả các đô thị vừa và nhỏ cũng chịu ảnh hưởng đáng kể.

Biến động ô nhiễm bụi theo mùa và thời gian trong ngày

Tại miền Bắc, nồng độ bụi PM2.5 có sự thay đổi theo mùa, thường tăng cao từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, đặc biệt trước và sau khi có không khí lạnh tràn về. Vào mùa đông, điều kiện khí tượng bất lợi như ít mưa, gió lặng, nghịch nhiệt khiến bụi mịn không thể khuếch tán, dẫn đến ô nhiễm không khí nghiêm trọng. Ngược lại, vào mùa hè, nhờ lượng mưa nhiều, tốc độ gió cao và hiện tượng đối lưu mạnh, nồng độ bụi giảm đáng kể. Riêng trong năm 2024, tính đến cuối tháng 10, Hà Nội đã trải qua 4 đợt ô nhiễm không khí nghiêm trọng, trong đó có 3 đợt từ tháng 1 đến tháng 4 và 1 đợt vào đầu tháng 10.

Ngoài sự thay đổi theo mùa, nồng độ bụi cũng biến động theo thời gian trong ngày. Tại các khu vực gần trục giao thông lớn, mức độ ô nhiễm bụi thường cao nhất vào các khung giờ cao điểm buổi sáng (7h – 8h) và buổi tối (18h – 20h) vào các ngày trong tuần. Ngược lại, nồng độ bụi giảm vào giữa trưa, ban đêm và các ngày cuối tuần hoặc dịp nghỉ lễ.

Diễn biến giá trị bụi PM10 và PM2.5 trong ngày tại các trạm quan trắc không khí tự động, liên tục (trung bình qua các năm)

Tác động của đại dịch COVID-19 đến chất lượng không khí

Trong giai đoạn cao điểm của đại dịch COVID-19 (từ tháng 6 – 9/2021), nhiều địa phương như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh đã áp dụng các biện pháp giãn cách xã hội, giảm thiểu hoặc tạm ngừng hoạt động công nghiệp, xây dựng, giao thông. Nhờ đó, chất lượng không khí được cải thiện đáng kể so với các năm trước. Tuy nhiên, từ năm 2022, khi các hoạt động kinh tế – xã hội dần phục hồi, mức độ ô nhiễm không khí cũng gia tăng trở lại. Giá trị bụi PM2.5 tại Trạm Minh Khai (Hà Nội) và Trạm đại sứ quán Mỹ tại TP. Hồ Chí Minh đã tiệm cận mức của giai đoạn trước đại dịch (2019 – 2020).

Các thông số khí thải khác (NO2, SO2, CO, O3)

Kết quả quan trắc giai đoạn 2022 – 2024 cho thấy, các thông số NO2, SO2, CO, O3 tại các đô thị đều duy trì ở mức thấp và nằm trong giới hạn của QCVN 05:2023/BTNMT. Trong đó, nồng độ CO và SO2 có xu hướng giảm do xu hướng sử dụng năng lượng sạch thay thế nhiên liệu đốt. Điển hình, từ năm 2019, UBND TP. Hà Nội đã ban hành Chỉ thị số 15/CT-UBND về loại bỏ than tổ ong trong sinh hoạt và kinh doanh dịch vụ, góp phần cải thiện chất lượng không khí.

Diễn biến giá trị O3 trong ngày tại một số trạm quan trắc

Riêng thông số O3 có sự dao động mạnh giữa ban ngày và ban đêm. Bắt đầu từ 7h sáng, nồng độ O3 tăng nhanh, đạt đỉnh từ 13h – 15h, sau đó giảm dần và duy trì ở mức thấp từ 19h trở đi. Nguyên nhân chính là do O3 hình thành từ phản ứng quang hóa, chịu tác động của cường độ bức xạ mặt trời, dẫn đến sự thay đổi nồng độ trong ngày.

Công tác quản lý chất lượng môi trường không khí

Với vai trò được Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ giao làm đầu mối quản lý nhà nước về chất lượng môi trường không khí, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) đã tích cực xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý, chính sách kiểm soát ô nhiễm không khí. Cụ thể, Bộ đã trình Quốc hội, Chính phủ ban hành các văn bản quan trọng như Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020, Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 hướng dẫn thực hiện Luật BVMT, cùng với Thông tư số 10/2021/TT-BTNMT ngày 30/6/2021 quy định về quan trắc môi trường và quản lý dữ liệu chất lượng môi trường, bao gồm quan trắc không khí. Ngoài ra, Bộ cũng đề xuất Thủ tướng Chính phủ ban hành các văn bản chỉ đạo như Quyết định số 1973/QĐ-TTg ngày 23/11/2021 về Kế hoạch quốc gia quản lý chất lượng không khí giai đoạn 2021-2025, Chỉ thị số 03/CT-TTg ngày 18/1/2021 về tăng cường kiểm soát ô nhiễm không khí.

Nhằm kiểm soát các thông số ô nhiễm khí thải, Bộ TN&MT đã ban hành nhiều quy chuẩn kỹ thuật quốc gia như QCVN 19:2009/BTNMT về khí thải công nghiệp đối với bụi và các chất vô cơ, QCVN 20:2009/BTNMT về khí thải công nghiệp đối với một số chất hữu cơ, cũng như các quy chuẩn riêng cho từng ngành như sản xuất phân bón hóa học, nhiệt điện, xi măng, lọc hóa dầu và sản xuất thép. Hiện nay, Bộ đang hoàn thiện dự thảo quy chuẩn về khí thải phương tiện ô tô lưu hành để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét ban hành.

Về xây dựng và vận hành hệ thống quan trắc không khí tự động, liên tục, đến nay Cục Kiểm soát ô nhiễm môi trường đã đầu tư, quản lý 27 trạm quan trắc tiêu chuẩn tại 22 tỉnh, thành phố lớn, trong đó Hà Nội có 4 trạm, TP.HCM và Đà Nẵng mỗi nơi có 2 trạm. Các trạm này giúp theo dõi chất lượng không khí tại các khu vực đô thị, trục giao thông quan trọng và khu công nghiệp. Ngoài ra, Cục cũng quản lý 4 trạm cảm biến tại Hà Tĩnh phục vụ nghiên cứu khoa học. Theo Quyết định số 224/QĐ-TTg ngày 7/3/2024 của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch mạng lưới quan trắc môi trường quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Bộ TN&MT sẽ tiếp tục đề xuất triển khai thêm 16 trạm quan trắc không khí tự động, nâng tổng số lên 43 trạm vào năm 2030.

Tại các địa phương, hiện có 30 tỉnh, thành đã vận hành 95 trạm quan trắc không khí tự động, liên tục, góp phần quan trọng vào việc giám sát, cảnh báo tình trạng ô nhiễm không khí trên toàn quốc. Đồng thời, Cục Kiểm soát ô nhiễm môi trường đã áp dụng các mô hình dự báo tiên tiến từ Mỹ và châu Âu như CMAQ và SILAM, giúp nâng cao độ chính xác trong dự báo chất lượng không khí. Hiện nay, bản tin dự báo chất lượng không khí 24-48 giờ đã được công bố rộng rãi trên toàn quốc và theo 6 vùng kinh tế-xã hội.

Về công tác thanh tra, từ năm 2023, các hoạt động kiểm tra tập trung vào các cơ sở có lượng khí thải, nước thải lớn và các đơn vị xử lý chất thải rắn, chất thải y tế. Năm 2023, Chi cục Kiểm soát ô nhiễm môi trường miền Bắc đã kiểm tra 14 cơ sở tại 5 tỉnh, xử phạt 9 cơ sở vi phạm với tổng số tiền hơn 6,6 tỷ đồng, trong đó có 3 cơ sở xả khí thải vượt quy chuẩn. Năm 2024, Chi cục tiếp tục kiểm tra 12 cơ sở, phát hiện 1 cơ sở vi phạm và đã chuyển hồ sơ để Thanh tra Bộ xử lý. Trong thời gian tới, công tác kiểm tra, giám sát sẽ tiếp tục được tăng cường nhằm đảm bảo việc thực thi quy định về bảo vệ môi trường không khí.

Giải pháp tăng cường hiệu quả quản lý chất lượng môi trường không khí

Giải pháp cấp bách trước mắt

– Kiểm kê nguồn khí thải: Tiến hành rà soát, đánh giá các nguồn phát sinh khí thải để xác định chính xác mức độ ô nhiễm không khí, từ đó đưa ra các biện pháp giảm thiểu và xử lý hiệu quả.

– Tăng cường quan trắc môi trường: Bố trí thêm các trạm quan trắc không khí, nâng cao tần suất quan trắc định kỳ và đảm bảo các trạm quan trắc tự động hoạt động liên tục. Công bố chỉ số chất lượng không khí (AQI) trên các phương tiện truyền thông để người dân nắm bắt và có biện pháp bảo vệ sức khỏe phù hợp, đặc biệt trong các khung giờ có mức ô nhiễm cao.

– Kiểm soát khí thải giao thông: Thực thi chặt chẽ các tiêu chuẩn khí thải đối với phương tiện cơ giới, thúc đẩy sử dụng phương tiện công cộng, xe điện, nhiên liệu thân thiện với môi trường nhằm giảm lượng phát thải độc hại.

– Tăng cường giám sát và xử lý vi phạm: Tiến hành thanh tra, kiểm tra, giám sát các nguồn thải từ hoạt động đốt rác, đốt sinh khối, xây dựng, cũng như từ các cơ sở sản xuất công nghiệp. Yêu cầu các doanh nghiệp lớn lắp đặt hệ thống quan trắc khí thải tự động và truyền dữ liệu về cơ quan quản lý theo quy định.

– Ứng phó với tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng: Các địa phương cần có kế hoạch hành động cụ thể để triển khai các biện pháp khẩn cấp khi mức độ ô nhiễm không khí vượt ngưỡng an toàn, tuân thủ theo hướng dẫn từ Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Giải pháp dài hạn

– Thực hiện chiến lược quản lý chất lượng không khí: Triển khai hiệu quả Kế hoạch quốc gia và cấp tỉnh về quản lý chất lượng môi trường không khí, nhằm kiểm soát và giảm thiểu ô nhiễm bền vững.

– Mở rộng hệ thống quan trắc không khí: Xây dựng mạng lưới trạm quan trắc tự động, liên tục để theo dõi, dự báo xu hướng ô nhiễm không khí, đặc biệt tại các khu vực đô thị đông dân cư.

– Chuyển đổi năng lượng sạch: Đẩy mạnh đầu tư vào các nguồn năng lượng tái tạo như điện mặt trời, điện gió, thủy điện nhỏ; hạn chế xây dựng nhà máy nhiệt điện than nhằm giảm phát thải khí độc hại.

– Xây dựng đô thị thông minh: Phát triển hệ thống giao thông hiện đại, áp dụng công nghệ tự động hóa để kiểm soát mức phát thải từ hoạt động kinh tế – xã hội.

– Nâng cấp giao thông công cộng: Mở rộng và nâng cao chất lượng hệ thống phương tiện công cộng, giảm phụ thuộc vào xe cá nhân. Khuyến khích người dân sử dụng xe đạp, phương tiện công cộng thông qua các chính sách ưu đãi và phát triển hạ tầng giao thông phù hợp.

– Hợp tác liên ngành trong kiểm soát ô nhiễm: Tăng cường chia sẻ dữ liệu, thiết lập cơ chế phối hợp giữa các tỉnh, thành phố nhằm kiểm soát hiệu quả tình trạng ô nhiễm không khí.

– Quy hoạch không gian xanh: Đẩy mạnh việc trồng cây xanh, xây dựng công viên, không gian công cộng nhằm tăng diện tích phủ xanh, góp phần cải thiện chất lượng không khí và nâng cao chất lượng sống của người dân.

Kết Luận

Tăng cường công tác quản lý chất lượng môi trường không khí tại Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách. Bằng cách áp dụng các giải pháp đồng bộ, từ hoàn thiện chính sách đến nâng cao nhận thức cộng đồng, Việt Nam có thể cải thiện chất lượng không khí, bảo vệ sức khỏe người dân và hướng tới phát triển bền vững. Hãy cùng chung tay vì một bầu không khí trong lành cho thế hệ hiện tại và tương lai!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

wechat