Xử lý chất thải rắn y tế là một vấn đề cấp bách, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường và sức khỏe cộng đồng. Trong bối cảnh chưa có điều kiện áp dụng rộng rãi các công nghệ tiên tiến, lò đốt rác thải y tế vẫn là một giải pháp được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo sử dụng tạm thời ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, việc vận hành lò đốt nếu không tuân thủ các quy chuẩn kỹ thuật sẽ tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, đặc biệt là phát thải dioxin/furan. Vậy, Việt Nam đã và đang làm gì để kiểm soát vấn đề này?
Thực trạng sử dụng lò đốt chất thải rắn y tế tại Việt Nam
Hiện nay, lò đốt vẫn là một trong những công nghệ xử lý chất thải y tế phổ biến tại Việt Nam, đặc biệt tại các bệnh viện tuyến tỉnh và huyện. Mặc dù có ưu điểm là xử lý triệt để chất thải và giảm thiểu thể tích, nhưng nếu lò đốt không đạt chuẩn hoặc vận hành không đúng quy trình, nguy cơ ô nhiễm môi trường thứ phát là rất lớn. Khí thải từ lò đốt có thể chứa các chất độc hại, trong đó dioxin/furan là những chất đặc biệt nguy hiểm, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người và hệ sinh thái.
Hệ thống pháp luật và chính sách kiểm soát ô nhiễm từ lò đốt
Nhận thức được nguy cơ này, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật và chính sách nhằm kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các lò đốt chất thải rắn y tế:
- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia: QCVN 02:2012/BTNMT quy định rõ ràng các tiêu chuẩn về khí thải từ lò đốt, đặc biệt là hàm lượng dioxin/furan phải thấp hơn 2,3 ngTEQ/Nm3. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để kiểm tra và đánh giá chất lượng hoạt động của các lò đốt.
- Đề án tổng thể xử lý chất thải y tế: Quyết định số 2038/QĐ-TTg về Đề án tổng thể xử lý chất thải y tế giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến 2020 đặt mục tiêu đến năm 2030, 100% chất thải y tế được xử lý đạt quy chuẩn môi trường. Đề án ưu tiên áp dụng các công nghệ xử lý tiên tiến, thân thiện với môi trường và đã đầu tư 150 triệu USD từ nguồn vốn vay Ngân hàng Thế giới và kinh phí sự nghiệp môi trường cho việc xây dựng hệ thống xử lý chất thải rắn y tế bằng công nghệ không đốt.
- Dự án hợp tác giữa Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên và Môi trường: Dự án “Hỗ trợ quản lý chất thải y tế nhằm giảm phát thải các chất gây ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy và thủy ngân” tập trung vào việc xây dựng chính sách quản lý nguy cơ phát sinh các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (UPOPs) từ lò đốt, và xây dựng kế hoạch hành động quốc gia để loại bỏ dần các lò đốt không đạt chuẩn.
- Thông tư số 31/2013/TT-BYT: Quy định các cơ sở y tế phải thực hiện quan trắc khí thải lò đốt theo QCVN 02:2012/BTNMT với tần suất 3 tháng/lần và báo cáo kết quả cho cơ quan quản lý.
Vai trò của các cấp chính quyền và cơ sở y tế
Việc kiểm soát ô nhiễm từ lò đốt chất thải rắn y tế đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ của nhiều bên. Đặc biệt, UBND các tỉnh, nơi phần lớn các lò đốt đang hoạt động, đóng vai trò then chốt trong việc:
- Kiểm tra, giám sát hoạt động của các lò đốt.
- Đầu tư và khuyến khích áp dụng công nghệ xử lý chất thải tiên tiến, thân thiện với môi trường để thay thế dần các lò đốt cũ, lạc hậu.
- Thực hiện trách nhiệm được quy định tại Điều 88 Luật Bảo vệ môi trường 2014 về quản lý chất thải trên địa bàn.
Bên cạnh đó, sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành liên quan, sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo các cấp và ý thức trách nhiệm của các cơ sở y tế là vô cùng quan trọng.
Kết luận
Kiểm soát ô nhiễm từ lò đốt chất thải rắn y tế là một nhiệm vụ cấp bách, đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của toàn xã hội. Với hệ thống pháp luật và chính sách ngày càng hoàn thiện, cùng với sự vào cuộc tích cực của các cấp chính quyền và cơ sở y tế, hy vọng rằng vấn đề này sẽ ngày càng được kiểm soát hiệu quả, góp phần bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng. Cục Quản lý môi trường y tế – Bộ Y tế đóng vai trò quan trọng trong việc điều phối và giám sát các hoạt động này.